Căn cứ pháp lý
Thương mại điện tử là gì?
Thương mại điện tử (Ecommerce/electronic commerce) là hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ trên Internet, nơi những cửa hàng truyền thống bước vào từ phố xá nhộn nhịp của thế giới thật. Ước tính có khoảng 2,14 tỷ người trên toàn thế giới mua hàng hóa và dịch vụ trực tuyến trong năm nay, và số lượng thành viên Prime mua sắm trên Amazon hiện đã đạt 150 triệu người.
Bán hàng trên sàn thương mại điện tử là một trong nhiều phương thức mà người bán có thể lựa chọn. Một số công ty chỉ tập trung bán hàng trực tuyến, nhưng đối với nhiều doanh nghiệp thì thương mại điện tử là một trong nhiều kênh phân phối thuộc một chiến lược bán hàng rộng hơn, bao gồm cửa hàng thật và nhiều nguồn doanh thu khác. Dù sao đi nữa, thương mại điện tử cũng giúp các công ty khởi nghiệp, doanh nghiệp lớn và nhỏ kinh doanh trên quy mô lớn và tiếp cận khách hàng trên toàn thế giới.
Quy định về quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử
Quyền sở hữu trí tuệ vốn dĩ là một phạm trù của pháp luật cũng như cơ chế bảo vệ cho các thành quả sáng tạo. Đây cũng là cách thức mà luật pháp bảo hộ trước các hình thức xâm phạm tài sản sở hữu trí tuệ. Ở đó việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử được chia thành bốn lĩnh vực. Cụ thể là: bằng phát minh sáng chế (patents), thương hiệu và nhãn hiệu (trademarks), bản quyền và tác quyền (copyrights) và bí mật thương mại (trade secrets).
Phạm vi điều chỉnh của quyền sở hữu trí tuệ nói chung bao trùm cả các tác phẩm và quyền của người sáng tạo nên tác phẩm trí tuệ đó. Trong đó khía cạnh thuộc về lĩnh vực thương mại điện tử đang được thể hiện rõ nét. Bởi vốn dĩ công nghệ thông tin và hệ Internet đã là một hệ thống tập hợp những tài sản trí tuệ đa dạng và tinh túy nhất ngày nay.
Vì vậy mà khi thương mại điện tử từng bước được vận hành trong môi trường kỹ thuật số thì nó mặc nhiên sử dụng các tài sản này trong hệ thống mạng. Chúng bao gồm cả các ứng dụng miễn phí hay trả tiền đi kèm với đó là những tài sản do chính hoạt động của thương mại điện tử tạo nên. Nhờ vậy mà phạm vi bảo hộ của quyền sở hữu trí tuệ được xem như mở rộng ra để phù hợp với tình hình thực tế.
Đối tượng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử
Đối tượng cần được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử gồm ba nhóm chính:
– Bằng sáng chế (patent): tạo nên bởi tổ hợp các phần mềm để thực hiện chức năng thương mại điện tử đặc thù cho công ty
– Bản quyền (copyright) đối với trang web và cả những gì truyền đi trên trang web
– Thương hiệu (trademark): bao gồm biểu tượng có giá trị và câu chữ giúp nhận diện công ty.
Bằng sáng chế
Sáng chế hay bằng sáng chế được định nghĩa tại khoản 12 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009, 2019. Cụ thể sáng chế là những giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình. Những đối tượng đó được ứng dụng nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên.
Để được bảo hộ, sáng chế đó phải thoả mãn các điều kiện tại Điều 58 Luật này:
– Có tính mới;
– Có trình độ sáng tạo;
– Có khả năng áp dụng công nghiệp.
Nếu tuân thủ được các điều kiện này thì sáng chế đó sẽ được cấp Bằng độc quyền sáng chế.
Ngoài ra đối tượng này còn có thể được bảo hộ bằng hình thức cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích nếu không phải là hiểu biết thông thường và đáp ứng các điều kiện sau đây:
– Có tính mới;
– Có khả năng áp dụng công nghiệp.
Bản quyền (Quyền tác giả)
Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật này thì Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
Nhãn hiệu
Luật sở hữu trí tuệ gọi chung nhóm đối tượng này là nhãn hiệu và định nghĩa chung tại khoản 16 Điều 4. Đây là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Để được bảo hộ bằng quyền sở hữu công nghiêp thì nhãn hiệu cần tuân theo các điều kiện quy định tại Điều 72 bao gồm:
– Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc;
– Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.
Thực trạng tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả; quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
Phạm vi áp dụng của quyền sở hữu trí tuệ nói chung bao trùm các hoạt động kinh doanh thông thường và bao gồm cả hoạt động kinh doanh trong thương mại điện tử. Một số đối tượng quyền sở hữu trí tuệ thường gặp và hay bị tranh chấp trong thương mại điện tử gồm:
– Sáng chế: Thường là các sáng chế được tạo nên bởi tổ hợp các phần mềm kết hợp với thiết bị vật lý (thiết bị điện tử, thiết bị đầu cuối, mạng máy tính, mạng Internet, mạng viễn thông, và thiết bị tích hợp khác) để thực hiện chức năng thương mại điện tử đặc thù nhằm mục đích bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ của chính doanh nghiệp đó.
– Nhãn hiệu: Là đối tượng phổ biến nhất của quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử. Nhãn hiệu giúp phân biệt hàng hóa cùng loại của nhà sản xuất này với nhà sản xuất khác, qua đó giúp người tiêu dùng quyết định lựa chọn của họ đối với hàng hóa/dịch vụ trên thị trường.
Nhãn hiệu cung cấp thông tin về hàng hóa/dịch vụ và nguồn gốc của hàng hóa/dịch vụ; Cung cấp thông tin gián tiếp về chất lượng hàng hóa/dịch vụ; thúc đẩy marketing hàng hóa/dịch vụ; lôi cuốn hay cuốn hút người tiêu dùng. Do đó, một nhãn hiệu mạnh giúp gia tăng lượng bán, mở rộng và duy trì thị phần và dễ dàng đưa hàng hóa/dịch vụ mới ra thị trường, qua đó giúp chủ nhãn hiệu tăng trưởng doanh thu và khả năng sinh lời.
Nhãn hiệu mạnh làm dịch chuyển đường cầu theo hai cách:
(i) Cho phép doanh nghiệp bán với giá cao hơn giá hàng hóa/dịch vụ cùng loại tại đó giao dịch được tiến hành hoặc
(ii) làm tăng sản lượng giao dịch hàng hóa/dịch vụ đó. Chính vì điều này mà nhãn hiệu là đối tượng bị giả mạo, bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là lớn nhất.
Ngoài ra, nhãn hiệu cũng là đối tượng thường bị bên thứ ba sử dụng làm tên miền để chiếm đoạt tên miền hoặc nhằm tạo lập một trang web với mục đích bán các hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, hành hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu.
Một số giải pháp ngăn ngừa tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử
Để giảm tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ và phòng chống nạn hàng giả, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử, các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khi tham gia thương mại điện tử cần nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, nhất là bảo hộ các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng trong thương mại điện tử.
– Cần đăng ký bảo hộ các sáng chế thực hiện chức năng thương mại điện tử đặc thù nhằm mục đích bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ. Cần sử dụng quyền tạm thời đối với sáng chế khi phát hiện người khác sử dụng nhằm mục đích thương mại và người đó không có quyền sử dụng trước thì người nộp đơn có quyền thông báo bằng văn bản cho người sử dụng về việc mình đã nộp đơn đăng ký.
– Đối với nhãn hiệu, nên sử dụng nhãn hiệu đã được bảo hộ trong hoạt động thương mại điện tử. Nếu dấu hiệu đang sử dụng chưa được bảo hộ, cần tiến hành thủ tục nộp đơn đăng ký nhãn hiệu cho các hàng hóa, dịch vụ đang kinh doanh tại Cục Sở hữu trí tuệ. Đồng thời, nên tiến hành đăng ký tên miền. Bởi lẽ, việc đăng ký tên miền đã không còn bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh, chỉ khi bên thứ ba có hành vi chiếm đoạt tên miền đó thì việc xử lý hành vi xâm phạm tên miền mới được thực hiện và trở lên khá khó khăn.
– Đối với kiểu dáng công nghiệp: nếu chưa được bảo hộ, cần lưu ý không được bộc lộ kiểu dáng công nghiệp trên sàn thương mại điện tử, mạng xã hội, hay trên chính trang web của họ. Việc bảo hộ này sẽ làm mất tính mới của chính kiểu dáng công nghiệp đó.
Đồng thời, khi phát hiện hàng giả, hàng xâm phạm quyền đối với sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, đầu tiên chủ sở hữu nên tiến hành lập vi bằng ghi nhận việc hàng giả, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ trên sàn thương mại điện tử, mạng xã hội hoặc trên chính trang web của người vi phạm, đồng thời viết thư khuyến cáo yêu cầu ngừng việc bán hàng giả, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và gửi chúng tới sàn Thương mại điện tử, tới chính trang web hoặc tới công ty của người vi phạm.
Nếu hành vi vi phạm vẫn tiếp diễn, chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ có thể thực thi quyền của mình thông qua các biện pháp hành chính, dân sự, hoặc hình sự.
Mời bạn xem thêm bài viết
- Dịch vụ xin Giấy phép sàn thương mại điện tử tại Hưng Yên 2023
- Thủ tục cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành chi tiết 2023
- Hồ sơ miễn giấy phép lao động bao gồm những giấy tờ gì?
Thông tin liên hệ
Vấn đề “Sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử” đã được chúng tôi cung cấp qua thông tin bài viết trên. Luật sư Hưng Yên luôn có sự hỗ trợ nhiệt tình từ các chuyên viên tư vấn pháp lý, quý khách hàng có vướng mắc hoặc nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý liên quan như là đăng ký lại khai sinh, vui lòng liên hệ đến hotline 0833.102.102. Chúng tôi sẽ giải quyết các khúc mắc của khách hàng, làm các dịch vụ một cách nhanh chóng, dễ dàng, thuận tiện.
Câu hỏi thường gặp
Có được các luật lệ tốt về sở hữu trí tuệ là chưa đủ, các nước còn phải làm sao để luật lệ được tuân thủ chặt chẽ. Vấn đề này đã được luật thương mại quốc tế quy định, theo đó, chính phủ các nước phải bảo đảm thực thi pháp luật về bảo hộ được quyền sở hữu trí tuệ và các trường hợp vi phạm phải bị trừng trị thích đáng . Các thủ tục áp dụng phải hợp pháp , công bằng và không quá phức tạp và không phải tốn kém một cách không cần thiết . Các thủ tục này không được đề ra thời hạn quá dài hoặc gây chậm trễ một cách vô lí. Những người có liên quan phải được phép yêu cầu toà án xem xét lại quyết định hành chính cho dù đó đã là bản quyết định cuối cùng hoặc xét xử phúc thẩm một bản án của toà án cấp dưới. Hiệp định TRIPs / WTO có các quy định mô tả chi tiết các công cụ bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ , đặc biệt là các quan tới việc thu thập chứng cứ, các biện pháp tạm thời, các biện pháp tư pháp của toà án , các khoản bồi thường thiệt hại và các biện pháp xử phạt khác.
Theo Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, tác phẩm văn học và nghệ thuật được bảo hộ mà không cần thủ tục đăng ký bất kỳ tại các quốc gia thành viên.
Do vậy, không có thủ tục đăng ký quốc tế để bảo hộ quyền tác giả như sáng chế, nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp. Tuy nhiên, nhiều nước có Cơ quan quản lý quyền tác giả quốc gia và pháp luật một số quốc gia cho phép đăng ký tác phẩm với mục đích, ví dụ, xác định và phân biệt tên gọi của tác phẩm. Ở các quốc gia nhất định, việc đăng ký tạo ra một số lợi thế thiết thực khi nó được sử dụng làm chứng cớ ban đầu ở tòa án trong các vụ tranh chấp liên quan đến quyền tác giả và việc thực hiện một số quyền có thể phụ thuộc vào việc đăng ký.
Do đó, trong khi không có thủ tục quốc tế nào về đăng ký bảo hộ quyền tác giả ở nước ngoài và tác phẩm của bạn sẽ tự động được bảo hộ mà không cần đăng ký ở tất cả các quốc gia thành viên của Công ước Berne, bạn cũng có thể muốn đăng ký tác phẩm của mình tại các cơ quan quản lý quyền tác giả quốc gia nếu có thủ tục đăng ký.
Danh sách các cơ quan quản lý quyền tác giả quốc gia có tại trang web của WIPO theo địa chỉ www.wipo.int/news/link/addresses/cr
Thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bao gồm:
+ Thiệt hại về vật chất bao gồm các tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại;
+Thiệt hại về tinh thần bao gồm các tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho tác giả của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; người biểu diễn; tác giả của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng.
Mức độ thiệt hại được xác định trên cơ sở các tổn thất thực tế mà chủ thể quyền sở hữu trí tuệ phải chịu do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra.